một trà một rượu một đàn bà

Thưởng thức một ly rượu ngon cũng như thưởng thức một tách trà ngon, nếu như làm chủ được men say ẩn chứa bên trong. Đừng uống bằng suy nghĩ đàn ông uống được thì đàn bà uống được, bởi họ uống theo cách của một người phụ nữ chứ không phải cố gắng biến mình thành đàn ông. "Một trà, một rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được thứ nào hay thứ nấy. Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà." Vậy ta hãy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui: 1- MỘT TRÀ: Chẳng được bao lâu. Tra Cứu Khoản Vay Atm Online. Trang chủ Cười 24H Thứ Tư, ngày 05/09/2012 1108 AM GMT+7 Chừa được cái gì hay cái nấy. Có chăng chừa rượu với chừa trà... Hôm nay 5 tháng 9 năm 2012, cách đây đúng 142 năm nhà thơ Tú Xương ra đời. Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên khai sinh là Trần Duy Uyên, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định. Ông chỉ sống ở trên cõi đời này có 37 năm nhưng đã để lại cho hậu thế hơn trăm bài thơ đủ mọi thể loại thơ từ Thất ngôn bát cú; tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy. Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc “thần thơ thánh chữ”. Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau ba thi hào dân tộc Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm. Nhân dịp sinh nhật ông, Cười 24H từ lâu vốn ngưỡng mộ ông, coi Tú Xương như ông tổ của dòng thơ hài hước, châm biếm Việt Nam xin mạn phép múa trộm “bàn phím” ít dòng để tỏ lòng tưởng nhớ đến tiền nhân. Tú Xương rất đẹp trai! Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương tuyệt nhiên không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú chắc chắn là cực kỳ đẹp trai, phong độ. Điều này được Cười 24H “suy luận” qua bài thơ của người bạn học tên Lương Ngọc Tùng tả về ông “Cùng làng, cùng phố, học cùng trường Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương, Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết, Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương. Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú, Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường. Mấy chục năm trời đà vắng bóng, Nghìn năm còn rạng dấu thư hương” Không đẹp trai sao được khi Trán rộng, da trắng, mồm tươi, mũi thẳng, mắt sáng, thư sinh? Cũng chính vì đẹp trai như vậy nên các cô gái mê Tú Xương như điếu đổ, đến nỗi mới 16 tuổi Tú Xương đã phải lên giường - xin lỗi, lên đường lấy vợ. * * * Tú Xương cũng mê tín? Cả cuộc đời Tú Xương hầu như chỉ gắn liền với thi cử, tổng cộng 8 lần, đó là các khoa Bính Tuất 1886; Mậu Tý 1888; Tân Mão 1891; Giáp Ngọ 1894; Đinh Dậu 1897; Canh Tý 1900; Quý Mão 1903 và Bính Ngọ 1906. Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ 1894 ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ lấy thêm. Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão 1903 Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi vẫn trượt vỏ chuối, Tú Xương đã cáu sườn đến độ thốt ra thơ “Tế đổi làm Cao mà chó thế, Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!” * * * Tên Tú Xương được dùng để quảng cáo lò luyện thi! Ăn theo câu chuyện Tú Xương nổi tiếng thi hỏng, ngày nay có một trung tâm luyện thi đã quảng cáo rằng “Bạn có biết rằng có những người thi tới 8 lần không đỗ, mặc dù họ không hề kém, đó là ai, xin thưa đó chính là Tú Xương! Vậy tại sao Tú Xương thi 8 lần đều trượt? Bởi vì Tú Xương đã không tới luyện thi đại học tại trung tâm của chúng tôi. Hãy đến trung tâm luyện thi đại học X, địa chỉ Y, số điện thoại Z để có số phận khác Tú Xương”. * * * Tú Xương là nhà báo! Tú Xương có thể coi như là một nhà báo đầu tiên ở VN vì tính báo chí trong thơ ông thể hiện rất rõ trộm vía, nếu sống ở thời nay thì chí ít ông cũng là tổng biên tập một tờ nào đó. Thơ Tú Xương như một tấm ảnh ghi lại những gì xung quanh, nào là ăn cắp vào nhà pha, nào sư ở tù, mán ngồi xe, nào cảnh mẹ vợ ngủ với chàng rể, cô ký lấy lẽ Cũng rất gần báo chí là cái tư duy bám sát hiện tượng và sự vật của thơ Tú Xương. Ông thích mô tả, mà không thích tổng hợp vội, khái quát non. Nhân vật ông nói tới phải có cái tên cụ thể ông ấm Điềm, ông cử Nhu, ông đồ Bốn..., địa điểm xảy ra hành động cũng là những phố, những làng có thật Hàng Lờ, Hàng Nâu, Hàng Sắt Đặc biệt, với Tú Xương bắt đầu cả loạt thơ chân dung viết về đủ loại ông đốc, ông phủ, ông đội, ông lang, ông cò, cô đầu, lái buôn, bợm già, công chức thuộc địa Những con người có thật đó vào thơ ông sống động linh hoạt như ở ngoài đời mà vẫn gợi ra những ý nghĩ khái quát mà các bài báo sắc sảo phải có. Nhiều sáng tác của Tú Xương hình như được viết rất nhanh. Sự việc vừa xảy ra là ông có thơ ngay. Lại có những bài ông làm theo theo đơn đặt hàng của người khác, mà vẫn chân thành, sâu sắc và gửi gắm được tâm sự riêng của mình. Cái lối viết có vẻ như không cần cảm hứng này đích thị là một kiểu rất gần với báo chí hiện đại. Nếu là nhà báo, Tú Xương sẽ là một nhà báo viết được nhiều đề tài, thể loại khác nhau. Trong khi bị gò bó ở thể thơ thất ngôn, ông vẫn tỏ ra là một ngòi bút phóng túng, có thể “xoay phỏm” đủ kiểu, từ phóng sự, đặc tả cho tới tạp ghi, phiếm luận, nhàn đàm... thậm chí là cả dịch thuật nữa. * * * Tú Xương là “thần tượng” của đàn ông Việt! Chỉ với 4 câu thơ, Tú Xương đã làm đàn ông VN đến tận hàng trăm năm sau vẫn tỏ rõ sự “ngưỡng mộ, biết ơn” khi ông đã nói rõ lòng họ một cách đầy công khai nhưng cũng thật... tinh tế trong bài thơ Ba cái lăng nhăng đáng được lọt vào top những bài thơ đi cùng năm tháng Một trà một rượu một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà! Xem một số bài họa * * * Tú Xương là người tình tuyệt vời của vợ Với đàn ông thì Tú Xương đã thành tấm gương cao cả, với phụ nữ Tú Xương cũng khiến họ có thể dâng hiến cả đời cho nhà thơ bởi những “tuyệt phẩm siêu nịnh vợ” với những dòng thơ như rút từ gan ruột của mình, đó là các bài “Thương vợ”, “Văn tế sống vợ”, hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương hiện lên đẹp đến mẫu mực như hình ảnh phụ nữ VN điển hình với những câu “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông...” Thương Vợ Dâng hiến cho chồng ở đây là Tú Xương cả vật chất lẫn tinh thần chưa đủ, trên thực tế vợ của nhà thơ còn dâng hiến cho ông đến tận 8 người con 6 trai, hai gái chứ “năm con với 1 chồng” là nhà thơ tài hoa và khỏe mạnh phong độ của chúng ta còn chưa “liệt kê” hết ở thời điểm sáng tác bài thơ “nịnh vợ” siêu kinh điển này. Cười 24H tin chắc rằng bất kỳ một người vợ VN nào “vô tình” đọc được những dòng thơ biết ơn và ngưỡng mộ vợ đến vậy trong nhật ký bí mật của chồng mà không nở một nụ cười mãn nguyện đồng thời nhũn như con chi chi và mất hết sức chiến đấu thì không thể nào là phụ nữ! Càng nói càng phục cái tài Tú Xương đến sát đất. Nói không ngoa thì đây có thể coi là một trong những “diệu kế” hàng đầu của “Binh Pháp trị Vợ”. Chỉ riêng điều này đã đủ để Tú Xương trở thành một Hưng Đạo Vương trong Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. * * * Chỉ duy nhất Tú Xương làm được Tú Xương còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử thơ phú Việt Nam Tú Xương Có "môn Phái", "môn đệ". Tên của ông là Trần Tế Xương, có lúc đổi thành Trần Cao Xương. Nhưng đây là chữ “xương” với nghĩa "thịnh vượng" còn có nghĩa là đẹp, thẳng. Sách xưa có câu "Đức giả xương" người có đức, thịnh vậy. Không phải là xương theo nghĩa “xương thịt”. Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "hư cấu", gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương thịt lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, 21 bỗng nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc... và ngay cả ở 24H cũng có Cử Tạ và Tú Jap, dù không nổi tiếng nhưng cũng nổi... tai tiếng viết tệ! * * * Với tinh thần ngưỡng mộ cụ Tú Xương cao độ, người viết bài này xin dẫn lại một bài thơ của chính mình phỏng theo lối thơ của cụ Tú để nói về những người đang ngày đêm noi gương cụ viết tiếp những dòng trào phúng, hài hước, châm biếm trên Cười 24H Chém cha cái kiếp viết truyện cười Hai tay ôm phím, mặt ngửa trời Ngó giống đười ươi cười sằng sặc Rặn ra một đống “những vui tươi” Chém cha cái kiếp viết truyện cười Ruột gan dẫu héo mặt phải tươi Mỗi ngày phục vụ bao độc giả Làm dâu trăm họ mệt đứt hơi Chém cha cái kiếp viết truyện vui Sếp chê truyện viết rất... dở hơi Dăm ba độc giả khen... thâm thúy Nhẫn tâm kẻ phán “Viết như b...” bò Chém cha cái kiếp viết truyện hài Gà chưa kịp gáy đã đăng bài Đêm hôm khuya khoắt bò trên Net Rình rập post tin buổi sáng mai Chém cha cái kiếp viết tiếu lâm Người yêu, kẻ ghét, đứa chê... hâm Vài cô ngúng nguẩy “Trình hơi thấp” Dăm chị ỉ ôi “chuyện quá... dâm”! Có thể theo bút pháp trào phúng mà trong bài thơ “Ba cái lăng nhăng”, nhà thơ Tú Xương nói chơi chứ không phải nói thật “Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó quấy ta/ Chừa được cái nào hay cái nấy”. Ba câu này là kể, kể những cái “nhiêu khê” theo sắc thái hài hước. Người đọc băn khoăn hào hứng chờ nhà thơ “chừa” cái gì..., thì bất ngờ, là chừa cái sự “không nói ra” “Có chăng chừa rượu với chừa trà”. Thế là cả “ba cái” chưa hẳn đều “lăng nhăng”!? Tự trào Nguyễn Khuyến! Không chỉ là “nghệ thuật băm thịt gà”!? Bài viết xin chọn chứng minh “trà” như một chủ đề trong văn học nước ta. Theo học giả Đào Duy Anh, trong chữ Hán, “trà” là chè nói chung, nhưng trong tiếng Việt thì “trà” là chè cao cấp nên có “chè tười” lá chè tươi mà không có “trà tươi”. Thời trung đại, ngoài thơ Thiền, trà được nói nhiều trong thơ Nguyễn Trãi. Bài “Ngẫu thành” là cảnh sinh hoạt “Mây tỏa đầy nhà, mai đốt bách/ Tùng reo quanh gối, tối đun trà”. Sáng sớm mai đốt gỗ bách sưởi ấm nên có cảm giác “mây tỏa đầy nhà”. Buổi chiều có tiếng cây tùng reo quanh gối. Tối đến nổi lửa đun trà. Trong bài “Mạn hứng” là cảnh “Quét tuyết đun trà bên trúc ổ/ Đốt hương đọc sách dưới mái hiên”. Trong một bài thơ chữ Hán khác ông nói lấy chè trà làm phương tiện “rửa sạch lòng trần”. Ước mơ bình dị của bậc đại nhân, đại trí ấy lại chỉ là “Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây/ Để múc nước khe nấu chè và gối đá ngủ” Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác. Đấy là trong “Ức Trai thi tập”, thơ chữ Hán, trong thơ Nôm “Quốc âm thi tập”, chè trà được nói tới nhiều hơn. Chùm bài “Ngôn chí” có những câu “Cởi tục chè thường pha nước tuyết/ Tìm thanh trong vắt tịn chè mai”. “Tịn” tiếng cổ, có nghĩa là “tận”, là hết. “Tịn chè mai” là hết chè hồng mai rồi nên phải thay chè bằng “nước tuyết”, ý nói cuộc sống nghèo lấy cái thanh cao làm trọng. Lại có câu “Chè mai đêm nguyệt dậy xem bóng” tức ban đêm dậy uống chè hồng mai thưởng trăng. Trong chùm bài “Thuật hứng” có hai lần nói tới “chè tiên” “Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về” và “Chè tiên nước ghín bầu in nguyệt”. “Chè tiên” là chè gì? Theo chú giải của Đào Duy Anh thì “tiên” nghĩa là nấu, “chè tiên” là đun, nấu nước chè trà. Chữ “tiên” nghĩa là nấu này đến nay hầu như không còn dùng. “Ghín” từ cổ nghĩa là gánh. Câu thơ tả cảnh gánh nước đêm về nấu chè nên ánh trăng in vào thùng, gánh nước cũng như gánh cả trăng nguyệt đeo về! Đối ẩm! Như vậy Nguyễn Trãi ưa dùng chè và thường dùng vào buổi tối, ban đêm. Khác với tập quán sau này của nhiều người uống chè vào buổi sớm Bình minh sổ chản trà. Hai câu quen thuộc của ông nói về chè, nhiều người thuộc “Say mùi đạo, chè ba chén/ Tả lòng phiền, thơ bốn câu” “Thuật hứng 13”. Ở đây là một quan niệm mượn thú uống chè trà để suy ngẫm về đời, về “đạo” có thể hiểu là đạo lý, đạo trời, đạo nhân.... Liệu có khỏi suy diễn khi coi Nguyễn Trãi là người đầu tiên ở xứ ta nâng thú uống trà lên thành “đạo” trà đạo?! Cùng một quan niệm về sứ mệnh thơ ca nói lên tâm trạng lòng người. Chùm thơ cho biết Nguyễn Trãi làm khi về ở ẩn đầy tâm trạng phiền não nên lấy trà làm phương cách giải khuây. Chắc được dùng trà trồng ở nhiều nơi nên trong “Dư địa chí” ông viết tại châu Sa Bôi Quảng Trị có loại trà lưỡi sẻ tước thiệt rất thơm ngon. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có ba lần nói về chè trà. Khi Kim Trọng tương tư “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”. Khi Thúc Sinh mặn nồng với Kiều “Khi hương sớm, khi trà trưa/ Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn”. Kết thúc cuộc tình với Thúc Sinh, Kiều phải vào Quan Âm Các “áo xanh đổi lấy cà sa”, có hai thị nữ trông nom “Xuân, Thu cắt sẵn hai tên hương trà”. “Hương trà” có thể hiểu là dâng trà khi tụng kinh niệm Phật!? Như vậy “trà” cũng được Nguyễn Du coi như một nét thi pháp để miêu tả hoàn cảnh, phân tích tâm lý nhân vật. Trong cái hoàn cảnh, tâm trạng Kim Trọng “Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng” về “bóng hồng” Kiều thì “trà khan giọng tình” như thổn thức, dằn vặt, trăn trở, muốn nói ra mà không/ chưa nói được... là tuyệt hay! Trong “Vũ trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ 1768-1839 tả việc uống trà ở xứ Bắc thời Cảnh Hưng thật tốn kém “Các nhà quý tộc, công hầu, con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ. Có khi mua một bộ ấm chén phí tổn đến vài mươi lượng bạc…”. Đúng với tính chất ghi chép mà ông kể khá tỉ mỉ về đồ uống trà, như “chén uống chè cốt cho nhỏ mỏng, khi pha mới nổi hương vị. Vòi ấm thẳng thì nước không đọng, mặt dĩa phẳng thì đặt chén không nghiêng. Đế lò dầy mà lỗ thưa thì than lửa không bốc nóng quá. Lòng ấm siêu lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi…” Lê Quý Đôn 1726-1784 có dịp vào Phú Xuân Huế mà tả cảnh uống trà “Binh lính cũng đều ngồi chiếu mây, có gối dựa. Bên cạnh đặt lư đồng, pha chè Tàu ngon để uống, dùng chén sứ bịt bạc, ống nhổ bằng thau” “Phủ Biên tạp lục”. Trong văn học hiện đại, người nói hay, nói kỹ nhất về trà là Nguyễn Tuân. Đúng với phong cách đi tìm cái đẹp ở những cái kỳ lạ, trong “Vang bóng một thời” nhà văn tả thú thưởng trà như là một nghệ thuật sống. Trước hết phải có ấm “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bột, thứ ba Mạnh Thần”. Đặt lên chậu nước, nếu ấm nổi thì đúng là của Tàu... Chiếc ấm chuẩn phải hình quả sung, màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Ấm hình quả sung hay quả đào... cũng không được to quá, chỉ như nắm tay trẻ lên năm, đủ ba chén nhỏ. Vì to, nhiều nước thì mất hơi chè. Thế nên “chè tam” là vậy, ba chén, ba người uống. Không như uống rượu rượu tứ bốn người “thù tạc” đủ vai. Hơn nữa uống chè ngồi ba, vì còn “một chỗ” là vị trí để bếp và ấm đun trà. Cụ Nguyễn Trãi viết “Say mùi đạo, chè ba chén” là vậy, vừa hết một ấm chè, và cũng vừa đủ. Uống nhiều thì không phải uống trà. Uống rượu thì hơi men bốc lên, có khi mặt đỏ phừng phừng. Càng say càng muốn uống. Uống trà thì hương trà chảy ngược vào trong, phải chậm rãi, nhẹ nhàng, tâm phải thanh, lòng phải tịnh. Uống từng chút một, không còn là uống nữa mà là “thưởng”, thưởng trà...!!! Chè ba chén...!!! Quan trọng thứ hai là nước để pha trà. Không được là nước máy. Phải là nước mưa hoặc nước giếng khơi. Hoặc cho thuyền nhỏ ra giữa sông to múc về đủ dùng. Tuyệt nhất là bằng nước sương đọng trên lá sen. Tờ mờ sáng chèo thuyền thúng ra hồ để gạn từng giọt sương lóng lánh như những giọt thủy ngân đọng trên lá. Có người còn cho trà vào cánh hoa sen ướp từ tối hôm trước... Nước pha trà đun khi nào nổi tăm mắt cua là được không được để nổi tăm mắt cá… Chất cổ điển trong văn Nguyễn Tuân là đủ cả cái “kỳ” và cái “xảo”. “Kỳ” là kỳ nhân người lạ, kỳ vật vật lạ, kỳ thú thú chơi lạ... “Xảo” là tinh tế, tinh xảo, công phu “Nghề chơi cũng lắm công phu”. Một nhân vật người ăn mày của Nguyễn Tuân hội đủ cái “kỳ” cái “xảo” này... Có một người ăn mày “cổ quái” toàn vào xin những nhà đại gia và cố giáp được mặt chủ nhân rồi có xin gì mới xin. Lần ấy đến xin nhà phú hộ giữa lúc chủ nhà cùng một vài khách đang ngồi dùng trà sớm. Chủ nhân hỏi hắn xin cơm thừa hay canh cặn. Hắn gãi tai, lễ phép xin chủ nhân cho được uống trà. Được phép, hắn xin muốn uống nguyên một ấm trà mới. Hắn giở cái bị ăn mày ra, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm… Bỗng chốc, từ thân phận ăn mày, người đó như trở thành một tiên ông vượt ra khỏi không gian, thời gian thực tại để đến nơi tiên giới. Người ta mới thấy đây đích thực là người sành trà, ung dung, tự tại, thong dong, khuôn mặt trong sáng thánh thiên như tiên như Phật, không chút bợn trần... Uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo mắt, chép môi đứng dậy, chắp tay và thưa “bình trà của ngài lẫn mùi trấu ở trong”. Hắn đi, cả nhà giật mình kinh sợ vì, ở lọ trà có đến mươi mảnh trấu... Lứa sau Nguyễn Tuân, nhà thơ Phùng Cung có mấy câu thơ để đời về trà “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Không đổi giọng Tân Cương”. Tả trà nhưng ý nghĩa thì vượt ra ngoài hình tượng. Có thể hiểu con người ta nghệ sĩ phải như thứ trà ngon từng trải qua cái xót xa đau đớn ở đời nhưng vẫn giữ được bản lĩnh không đổi giọng mới có thể đóng góp cái hương vị riêng của mình!? Ngày nay khoa học dinh dưỡng cho biết trà xanh giúp sảng khoái, làm tăng sự tỉnh táo, giảm nguy cơ ung thư, giúp diệt khuẩn, cải thiện sức khỏe răng miệng... Người Nhật Bản xem trà là một thứ “đạo” trà đạo như là một nghệ thuật sống, một sinh hoạt văn hóa, một thú vui tao nhã, di dưỡng tinh thần, tu tâm dưỡng tính. Thậm chí còn coi như là một tôn giáo truyền dạy đạo lý răn dạy ý nghĩa ở đời và làm người! hơ Trà ^^ Một trà một rượu một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà Tản mạn chuyện trà – la cà chuyện rượu Rượu chè, một trong mấy thứ ” tính tình tinh” nó quấy ta! Ấy… trong đời có mấy ai lại không dính dấp đến ” rượu hay chè” nhưng ông bà ta đã từng nhắc nhở chúng ta nên ” cẩn thận” ! Nhân dịp đầu Xuân, Bí Bếp mong “tán gẫu” cùng ACE về “sự cố” rượu chè hén… và để mở đầu câu chuyện, Bí Bếp xin dùng “trà” thay vì “rượu” để tiếp ACE trước hén. Trà đã gắn liền cùng văn hoá “ăn uống” của dân Việt nói riêng, và các dân tộc gốc Á Châu nói chung, đã lâu lắm, lâu lắm rồi! Theo truyền thuyết của mí chú thím Ba TQ thì ông tổ của trà bên Tàu là vua Thần Nông cũng là ông tổ của nghề thuốc Bắc và cũng là ông tổ của nghề nông! Có người cũng ” théc méc” là “nhân vật” vua thần Nông có thật hay chỉ là một sáng tác của ai đó chăng ? Đại khái thì truyền thuyết về Trà được kể như sau Vua Thần Nông, có tiếng là một trong những ông vua thuộc dạng “minh quân” và có tiếng là ” thương dân, mến nước”, nhất của người Hoa. Vua Thần Nông đã dạy dân TQ cách thức cày bừa, trị bệnh, và ngay cả một số cách thức “ăn chơi”. Vua Thần Nông thường xuyên đi chu du khắp nơi theo dạng “thăm dân cho biết sự tình”. Trong một chuyến “công du” ở miền Nam mạn Lĩnh Nam, hồ Động Đình, vua và tùy tùng tạm nghỉ chân dưới một tàng cây nọ. Vua cho người đun nước sôi thì trong lúc có một ít lá khô rơi vào nồi nước. Trong lúc đang mỏi mệt, vua ta vẫn uống nước đấy chứ không chờ đám tùy tùng nấu nồi nước khác. Một lúc sau, nhà vua cảm thấy trong người lâng lâng và sảng khoái nên vua cho lấy giống, trồng lại và phổ biến trong dân gian nên dùng loại cây lá đấy mà làm thức uống, rất tốt cho “xức phẻ”! Còn một thuyết khác thì trà đã du nhập vào Trung Hoa sau khi theo chân cùng một vị Tu sĩ Phật Giáo từ Ấn Độ Bồ Đề Lạt Ma cũng ngót nghét khoảng năm về trước. Trong suốt chín năm “thiền định”, Bồ Đề Lạt Ma đã không ăn gì ngoài uống một ít nước và ngậm lá trà để giúp ngài “tịnh thần” chống buồn ngủ trong lúc “thiền”. Chuyện ngậm trà hay uống “trà” trong lúc thiền của các tu sĩ Phật Giáo Trung Hoa hay Nhật Bản thì có khá nhiều “tình tiết” hơi giống nhau. Nếu dựa theo truyền thuyết đầu tiên của mí chú thím Ba thì trà đã lưu truyền trong dân gian Trung Quốc cũng đã ngót nghét năm rồi. Thực thế nếu ta dựa vào “sách vỡ” dạng “cổ thư” của họ thì ” trà” đã được nhắc đến như là một trong những “vị thuốc” từ phương Nam từ thời hậu “Xuân Thu Chiến Quốc” 200-100 BC. Thế mãi cho đến thế kỷ thứ 8 của thời Đại Đường, ông Lữ Dự, một văn sĩ, hoạ sĩ, thi sĩ và một loạt “sĩ” của TQ mới viết một cuốn sách chuyên bàn trò ăn chơi của “trà” qua tựa đề ” Kinh Trà” Cha Ching]. Lữ Dự rất là tình tiết trong quan niệm trồng trà, hái trà, sấy trà, cất trà, uống trà, và cuốn “Kinh Trà” vẫn được xem là “mẫu mực” của cách thưởng thức “trà” của người Hoa từ trước đến nay. Cho dù trà có thể đã có rất lâu đời nhưng dựa theo “sách vỡ” thì trà trở thành một trong những sản vật được trao đổi giữa các dân tộc trong vùng Á châu theo con đường “tơ lụa” trên dưới mười thế kỷ qua. Trà có nơi đã được đúc thành bánh và dùng thế cho “tiền” trong các vụ mua bán, đổi bác giữa các dân tộc, nhất là các sắc dân sống ở miệt tây bắc Trung Hoa. Trà đã được du nhập và nước Nhật từ thế kỷ thứ 10 cũng theo chân cùng các tu sĩ Phật Giáo nhưng rất giới hạn cho đến thế kỷ thứ 15 trở về sau trà mới được phổ biến rộng rãi hơn trong nước Nhật. Từ từ, chúng ta sẽ “mạn đàm” về quan hệ “trà đạo” của người Nhật có quan hệ như thế nào với nghề “trà” của xứ ta hén. Trà, chiếu theo truyền thuyết dân gian của người Việt mình thì cũng đã kéo dài cả năm nay chớ ít sao . Trà là một giống cây Camellia sinesis mọc “hoang” từ Ấn Độ sang miền nam Trung Hoa, xuống đến mạn Đông Nam Á, nhất là ở các miền Cao Nguyên của Việt Nam, Campuchia, Mã Lai, Ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên người ta còn tìm thấy một số cây trà rất cổ vẫn còn sống chiết tính có thể lên đến năm tuổi. Sau năm Bắc Thuộc nước Việt Nam đã giành độc lập sau triều Đại Đường bị nhà Tống lật đổ – từ thế kỷ thứ 10 ,dù sao nền văn hoá Việt Nam, ngay cả nghệ thuật ” ăn uống” cũng bị ảnh hưởng không ít thì nhiều theo văn hóa Trung Hoa. Ngược dòng lịch sử một tí thì triều Tống bên Trung Hoa đã thay thế nhà Đại Đường kể từ thế kỷ thứ 10 cho đến lúc họ bị quân Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn tiến chiếm mà thiết lập nhà Nguyên gần cả 100 năm vào gần cuối thế kỷ thứ 13. Trong thời cực thịnh của triều Tống cũng là lúc nền văn hoá độc lập của Việt Nam cũng phát triễn khá mạnh bắt đầu từ Lý Công Uẩn và kéo dài gần suốt cả chín đời vua của triều Lý trong khoảng thời gian nầy. Nước Nhật lúc đấy lại bị triều Tống “cô lập” nên một số tu sĩ Phật Giáo và danh thương người Nhật đã dùng Việt Nam làm ngã du nhập ” văn hoá” cho xứ sở của họ. Nghệ thuật uống trà của Việt Nam điển hình là trà xanh và trà cụ đã được tiền nhân chúng ta cho xuất cảng sang Nhật trong giai đoạn nầy từ triều nhà Lý sang đến nhà Trần. Hiện nay tại một bảo tàng viện của người Nhật ở Kyoto cựu thủ đô của Nhật vẫn còn lưu giữ và chưng bày một số trà cụ từ Việt Nam mà họ đã nhập vào nước Nhật trong triều đại nhà Lý. Người Nhật vẫn xem đấy là những món đồ “quốc bảo”. Riêng trò chơi “trà” của người Việt chúng ta thì đã được phát triễn cực thịnh, trở thành một bộ môn chơi của giới quan quyền, thượng lưu trong triều nhà Nguyễn của thời cận đại. Điển hình nhất cho bộ môn trà trong thời Nguyễn là sự phát triển của trà ướp sen trong thời vua Tự Đức cung nữ bơi thuyền ra hồ sen trong buổi chiều, cho trà sấy vào mỗi đoá sen để lấy hương sen qua đêm, rồi bơi thuyền ra lấy trà lại vào buổi sáng ngày hôm sau… cho vua và các quan lớn thưởng thức loại trà ướp sen nầy. Phổ thông hơn thì trà đã gắn liền cùng đời sống thường ngày của người Việt chúng ta. Trà dùng không những được dùng làm một thức uống tiện dụng hàng ngày mà là một “sính lễ” không thể thiếu trong những dịp lễ trọng đại như ” ma chay, cưới hỏi”, và dùng để tiếp khách từ dạng “quốc khách” cho đến “thực khách” của hàng dân giả! Cụ Tú Xương, một trong những thi sĩ có thể nói là “chịu chơi” nhất trong làng văn học Việt Nam cũng đã từng than thở sự yếu kém của mình trước hấp lực của “trà” như sau Một trà một rượu một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà Cách thức uống trà phổ thông của người Việt thì thường không cầu kỳ như kiểu uống trà Trà tàu hay lề mề như trà Nhật Trà Đạo… Trà ta thường gói ghém ở dạng trà xanh mà nổi tiếng nhất là các dạng trà được trồng ở mạn Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Thái, Hà Giang, và sau nầy được trồng ở các vùng của Trung Nguyên Bảo Lộc, Đà Lạt, . Trà cũng được bày bán cho tầng lớp dân lao động ngày xưa ở dạng ” chè tươi” và sang hơn thì các loại trà tẩm hương nhài, cúc, sen, quế, Sau nầy, một số dân chơi lại khoái ” mode” trà túi trà Lipton và phổ thông hiện giờ thì trò ” trà sữa” của Đài Loan đã mọc như ” nấm” ở các thành phố và cộng đồng Việt từ trong cho đến ngoài nước. Riêng cách uống trà theo ” bài bản” của dân “sành điệu” dạng ” tao nhân mặc khách” ngày trước thì được gói ghém như sau Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh. Phần chính của trà ngon, phải là nước… nước thường là nước mưa được hứng ở giữa trời. Cẩn trọng hơn nữa, nước đun trà có người còn đi lấy từ các nguồn suối thiên nhiên, hay từ một số mạch giếng không bị ô nhiễm, rồi được mang về, che đậy cẩn thận cho đến khi dùng để “cất” trà. Cách nấu nước cũng hết sức quan trọng. Than thường được dùng để “đun” nước vì than không bốc mùi làm hư nhiễm ” mùi trà” như các loại củi khô, dầu hôi, hay các loại dầu khác. Nhiệt độ cũng thế sôi sủi tăm, đầu nhang, đầu đũa, thường là cách mà người trước phân định sức nóng của nước ngày nay thì ta dùng điều nhiệt kế cho chắc ăn. Sau đó mới đến loại trà mà ta chọn để ” cất” . Trà ta, thì đã nói thường là các loại trà xanh trà móc câu, trà Thái Nguyên, được cất ở khoảng sôi sủi tăm khoảng 80 độ C hay 165-170 độ F. Nếu trà tẩm hương trà sen, trà nhài, trà cúc, thì các cụ thường cất ở độ sôi đầu nhang khoảng 200 – 205 độ F như dạng ta ” ninh” nước lèo cho nồi phở. Các cụ tuyệt đối không dùng nước sôi để cất trà vì… nếu dùng nước sôi sẽ là ” cháy” trà… và trà trở nên ” chát ngắt” vì bị ” cháy”! Phần Bôi chén hay Bình trà ở đây thường là dạng chén cỡ hột mít hay mắt trâu . Bình hay ấm thì có bình chuyên và bình tống. Trước khi pha trà, các cụ dùng nước ” sôi” để tráng sơ chén và bình để làm nóng thật ra đấy là một hình thức tẩy vệ sinh và rửa trà nước đầu xong đổ đi… để cho trà nở đều trong nước mà cho ra hương vị đầy đặn nhất . Mỗi lần ” độc ẩm” , ” song ẩm” , ” tứ ẩm” , hay ” quần ẩm” thì các cụ lại đều có những loại bình đủ cỡ, đủ kích khác nhau. Như đã nói, nghề và kỹ thuật đồ gốm của người Việt thật ra đã khá phát triễn… từ lúc thủ đô nước ta đã được dời về Thăng Long Hà Nội ngày nay. Mới khoảng thời gian rất gần đây, Hà Nội mới khai quật được một số đồ gốm rất tinh xảo trong đời nhà Trần mà trình độ kỹ thuật không thua gì những tác phẩm đặc sắc của Trung Hoa! Phần ” ngũ quần anh” thì… “bạn trà” thường khó tìm hơn “bạn rượu”. Nghệ thuật uống trà cũng đã được các cụ cho vào hàng chiếu trên của ” tao nhân mặc khách” mà điển hình là thú nghe cô đầu hay hát ả đào mà chúng ta nghe đến sau nầy. Mèn, mí cụ ngày xưa nghe Hát Ả Đào dạng ca Trù mà được người đẹp có giọng ca thánh thót cỡ Mỹ Linh hay Ngọc Hạ pha trà

một trà một rượu một đàn bà